Cuộc đời mỗi người chúng ta là hành trình có quá khứ, hiện tại và tương lai, có những ước mơ, hoài bão, và cả những hoạch định cho đời mình. Nhưng chung quy lại tất cả cũng là để hướng đến một cuộc sống bình an, hạnh phúc sau này. Bản thân tôi cũng thế, tôi cũng có những dự định, những ước mơ cho riêng mình. Nhưng tôi lại không như bao bạn trẻ khác, các bạn mong muốn có một tương lai, một cuộc sống an nhàn, sung túc, được làm ông to bà lớn, có nhà lầu xe hơi. Còn tôi, tôi lại mong muốn một hành trình khác, mà đôi khi các bạn trẻ thời nay cho là điên rồ, dại dột, đó là theo gót người tình Giêsu đến hết cuộc đời. Hành trình ấy thật kỳ lạ, thật khác thường!
Tôi sinh ra và lớn lên tại làng Xuân Dục thân yêu. Làng tôi nằm gói gọn trên mảnh đất hình vuông, giữa là trục sông với hai hàng cau hai bên, chạy dài từ đầu làng đến cuối làng. Giữa làng là ngôi nhà thờ, nhà giáo lý và khu nhà ở của các Dì xứ. Nhà tôi nằm trên mảnh đất cuối làng, cách nhà thờ khoảng 500m. May thay! tôi được sống trong một giáo xứ toàn tòng. Mọi người dân nơi đây đều có chung một đức tin Công giáo. Điều đặc biệt hơn, riêng xóm nhà tôi ở, cho tới bây giờ hiện đã có một Linh mục, một phó tế, và 12 chị em hiện đang là các nữ tu tại các Hội dòng trong Giáo phận. Mọi người trong xứ hay nói đùa “hồng ân Chúa ban xuống khu chợ ấp”, vì chợ buôn bán của làng tôi nằm ở xóm tôi, với tên gọi “chợ ấp”. Chính vì thế, tôi đã được biết và hiểu phần nào về đời sống tu trì của các bậc “đàn anh, đàn chị”.
Giáo xứ tôi lại được các Dì Dòng Mân Côi Trung Linh phục vụ tại đó từ năm 2007 đến nay, nên tôi cũng có dịp tiếp xúc với các Dì ngay từ khi tôi mới học lớp 5, lớp 6. Từ ánh nhìn đầu tiên, tôi đã bị đánh động, bởi vẻ đoan trang, thánh thiện, hiền lành của các Dì. Khi các Dì tập hát, vẫy nhịp tôi còn thấy các Dì được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Đặc biêt, tấm áo dòng màu đen trải dài từ trên xuống dưới, nhưng lại hấp dẫn tôi đến kỳ lạ. Tôi ao ước: giá mình cũng được khoác lên người tấm áo ấy. Đúng là trẻ con! Suy nghĩ vẩn vơ!… Tôi dặn lòng.
Tuổi thơ tôi gắn liền với 4 đứa bạn, chúng tôi chơi rất thân với nhau, đi đâu cũng phải có nhau. Mỗi lần chúng tôi đi lễ, đi học giáo lý, hay đi sinh hoạt hội đoàn cũng phải kè kè bên nhau. Những ngày nghỉ học, lũ bạn đi chơi đây đó, chúng tôi lại rủ nhau vào nhà các Dì xứ chơi, giúp các Dì cắm hoa. Tôi còn nhớ, bố tôi hay mắng tôi: “suốt ngày đi”. Bố tôi chỉ nói thế thôi chứ cũng không cấm cản gì tôi cả. Đến năm tôi học lớp 9, các Dì xứ mời chúng tôi về Hội Dòng Mân Côi để tìm hiểu Ơn gọi. Lúc ấy tôi lưỡng lự, tôi cảm thấy sợ, vì vốn tôi thích đi tu, nhưng kỳ thực lại chẳng có ý niệm gì về Ơn gọi cả. Thế nên, tôi từ chối lời mời của các Dì và các bạn. Mãi cho đến năm lớp 11, tôi mới quyết định đi thử một lần xem sao. Ôi! Thật sự bất ngờ. Khi đến đây, các Dì, các chị tiếp đón chúng tôi rất nhiệt tình, chu đáo, không hề quản ngại, mặc dù con số lên đến cả trăm người. Tôi cảm nhận được sự tần tảo, hy sinh, phục vụ của các Dì trong suốt những ngày tĩnh tâm. Tuy vất vả, nhưng các Dì vẫn luôn nở nụ. Nhìn các Dì đi làm việc rồi đến giờ đi đọc kinh, ăn cơm, tôi nghĩ đến cuộc sống này chỉ cần nhẹ nhàng thế thôi là đã thấy bình an, hạnh phúc lắm rồi. Tôi thật sự ấn tượng về khóa tĩnh tâm này, vì tôi có nhiều thời gian để tâm sự với Chúa, mà đôi khi ở ngoài, tôi chẳng mấy khi quan tâm đến đời sống thiêng liêng. Lần này tôi đã giúp tôi lắng nghe được tiếng Chúa thôi thúc và bắt đầu nuôi dưỡng khát vọng đời tu.
Thời gian lặng lẽ trôi đi, tôi cũng thấy mình trưởng thành hơn, suy nghĩ người lớn hơn. Chuẩn bị bước sang giai đoạn cuối cấp – cánh cổng đại học là bước ngoặt cuộc đời của mỗi người chúng ta và cũng là lúc phải đưa ra quyết định cho mình. Cũng có những lúc tôi nhập nhoằng, băn khoăn khi phải đưa ra những chọn lựa. Tôi cũng thích tự do, thích hưởng thụ, thích trải nghiệm tuổi trẻ và nhiều điều thú vị khác. Bởi vì tuổi trẻ là mùa xuân của cuộc đời, là khoảng thời gian tươi đẹp nhất, rực rỡ nhất, nhưng cũng là độ tuổi của lo lắng, hoang mang khi luôn phải vật lộn, loay hoay tìm cho mình một chỗ đứng giữa đời, chòng chành giữa muôn vàn chọn lựa hướng đi và mục đích sống. Giữa ngã ba đường, tôi chỉ biết cầu nguyện. Tôi thinh lặng, dành khoảng thời gian cho mình, tôi cần phải lắng nghe tiếng Chúa mời gọi từ tận sâu thẳm con tim. Vì đây là một quyết định, một lời mời gọi rất riêng tư mà người khác không thể làm thay tôi được. Sau những ngày tháng suy nghĩ, cầu nguyện, tôi quyết định thưa chuyện với bố mẹ về việc đi tu của mình. Cả nhà không ai nói gì, trừ bà Dì em mẹ tôi thì cứ ra rả: “Mày đi tu á Dung? Sao mày dại dột thế? Giời ơi! Tương lại sự nghiệp không lo, lo cái đâu đâu không à? Chữ hiếu mày để đâu? Dì nói cho mà biết nha:
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ Cha kính Mẹ cũng là đi tu
Mẹ mày mang nặng đẻ đau, rồi bao nhiêu công lao nuôi dưỡng, chả lẽ mày lại vô ơn thế sao? Đi tu khổ lắm biết không hở?”
Nghe những lời chua chát, xối xả của Dì mà không khí trong nhà trầm hẳn. Tôi không kìm được cảm xúc, nước mắt lã chã rơi. Nén buồn, tôi cố giải thích cho Dì hiểu. Thú thật tôi cũng thương bố mẹ tôi lắm chứ. Mẹ thì không phản ứng gì, còn bố thì nói một câu khiến tôi và cả nhà phì cười: “Đi tu cũng được nhưng đã đi là đi cho trọn chứ đừng có ngãng ra là được”. Các anh chị tôi thì ủng hộ quyết định của tôi, nhưng không quên nhắc tôi đã đi thì quyết mà đi cho đến cùng chứ đừng có đứt gánh giữa đường. Thế là coi như tạm ổn chuyện xin đi tu.
Rồi cũng đến ngày tôi rời làng quê yên bình, rời gia đình thân yêu để lên chốn Hà thành phồn hoa tiếp tục theo đuổi nghiệp đèn sách. Vì điều kiện gia đình khó khăn, suốt 3 năm học, tôi cố gắng đi làm thêm để bớt đi phần nào gánh nặng tiền bạc cho cha mẹ. Thành phố ánh đèn hoa lệ, phố xá tấp nập, khác xa với miền quê yên tĩnh, thanh bình. Tôi cố gắng hòa nhập, nhưng vẫn còn đó một “cục quê”. Quê trong cách ăn mặc, vì cả đời sinh viên vẫn trung thành một gu áo trắng, quần đen, không môi son, chẳng má phấn, không giày nọ, cũng chẳng dép kia. Thế nhưng, cái khác đời ấy không làm cho tôi cảm thấy tự ti, nhưng ngược lại, tôi luôn vui với sự chọn lựa của mình, trong lòng tràn ngập an bình và thư thái.
Thời gian thấm thoát trôi qua, nghiệp đèn sách cũng khép lại, tôi chia tay Hà Nội và những con người nơi đây. Trở về miền quê, tôi tiếp tục sống lý tưởng của mình. Thời gian đã cho tôi lớn lên và học hỏi được nhiều điều mới lạ trong cuộc sống, những ngày tháng vui chơi, sống tự do đã kết thúc, tôi chuẩn bị hành trang cho một cuộc sống mới sắp bắt đầu.
Tối hôm trước khi tôi chuẩn bị lên Dòng, lòng tôi bồn chồn, xao luyến khó tả. Tôi miên man nghĩ ra đủ thứ trong đầu, không biết mình sẽ sống ra sao? Tương lai đời mình sẽ như thế nào? Mình có tu được không? có hạnh phúc không?… Cái đêm cuối cùng ở gia đình làm tôi nhớ mãi.
Ngay từ những giây phút đầu tiên được sống trong nhà dòng, tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc và an bình trong sâu thẳm tâm hồn. Hạnh phúc vì được ở trong Nhà Chúa, được các Dì, các chị yêu thương, quan tâm, nâng đỡ, chỉ dạy từ những điều nhỏ bé nhất. Chính vì thế, nỗi nhớ gia đình, cha mẹ, người thân phần nào nguôi đi. Nói thế không phải là cuộc sống tu không có gian nan. Ngay từ những ngày đầu, tôi phải cố gắng để hòa mình vào nếp sống chung, thay đổi những thói quen đã như in vào máu, để sống theo khuôn phép, kỷ luật. Đời sống chung có lúc vui vẻ nhưng cũng không thiếu phiền toái, vì trăm người trăm tính. Dẫu vậy, tôi vẫn luôn cố gắng xây dựng tình hiệp nhất giữa các chị em, cố gắng cộng tác với ơn Chúa, và tìm ra thánh ý Chúa muốn thực hiện trên cuộc đời tôi.
Sống trong đời tu, tôi tưởng mình lẻ loi giữa cuộc đời, nhưng tôi còn có các Dì, các chị trong Hội Dòng, đặc biệt tôi luôn có người bạn đồng hành thân tình là Đức Giêsu. Nơi Ngài tôi tin tưởng chia sẻ mọi buồn vui trong đời tu và cả bí mật đời mình. Ngài luôn âm thầm dõi bước và nâng đỡ tôi trên mọi nẻo đường. Chia sẻ ơn gọi đời tôi một cách đơn sơ, nhưng với một ước mong chân thành, mong cho các bạn cũng can đảm bước đi theo Chúa, và để Chúa hướng dẫn đời mình, vì “Chúa là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6).
Mai Dung